Sự trưởng thành về nghệ thuật quân sự của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đọ sức quyết liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc, chúng ta đã phải đương đầu với tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực, sức mạnh quân sự vượt trội. Quân và dân ta đã chủ động đánh thắng từng chiến lược chiến tranh của địch giành thắng lợi, từng bước làm thay đổi cục diện chiến trường, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Sự trưởng thành về nghệ thuật quân sự của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trải qua năm giai đoạn. Mỗi giai đoạn phản ánh từng bước phát triển về chất của cục diện chiến tranh. Cuối cùng, thực hiện bước nhảy vọt, giành toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến.

1. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960

Đảng ta sớm xác định và chỉ rõ kẻ thù là đế quốc Mỹ và tay sai. Từ đó khẩn trương, ổn định, củng cố miền Bắc làm căn cứ địa vững chắc. Quân đội tập trung nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp. Bước đầu xây dựng theo phương hướng chính quy, hiện đại. Huấn luyện quân sự, diễn tập thực nghiệm và thực binh. Ở miền Nam, phối hợp với phương thức đấu tranh mới từ cuộc “Đồng Khởi”, nổ ra đồng loạt trên quy mô rộng lớn ở nông thôn đồng bằng Nam Bộ và miền núi Trung Bộ. Đó là kết hợp hai chân (chính trị, vũ trang) và ba mũi (chính trị, quân sự, binh vận). Lực lượng vũ trang mới hình thành, quy mô tổ chức các đơn vị vũ trang tập trung phổ biến là trung đội, đại đội và một số tiểu đoàn. Hình thức tác chiến chủ yếu là du kích, hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị và nổi dậy đồng khởi. Xuất hiện một số trận phục kích (Tua Hai); bao vây bứt rút đồn bảo an dân vệ, diệt ác ôn… vũ khí chủ yếu là thu được của địch và tự tạo. Một số trận có kết hợp với vận động binh lính địch và nội ứng một số nơi. Xuất hiện chiến đấu chống càn, phối hợp giữa đấu tranh chính trị trực diện của quần chúng có tổ chức với tác chiến du kích của lực lượng vũ trang. Đây là kết quả vận dụng kinh nghiệm trong kháng chiến chống Pháp và có phát triển mới về nghệ thuật quân sự trong điều kiện chủ nghĩa thực dân mới.

2. Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965

Để đánh bại “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy. Ta đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân mạnh. Thực hiện hai phương thức tác chiến là chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy. Trong giai đoạn này, lực lượng vũ trang trên các chiến trường đã mở một số chiến dịch tiến công, qui mô tác chiến vừa và nhỏ. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm cả lực lượng vũ trang (chủ lực, địa phương) và lực lượng chính trị. Cách đánh chiến dịch là đánh điểm, diệt viện, phương châm (tư tưởng) chỉ đạo tác chiến là tiêu diệt địch ngoài công sự là chính. Địa bàn mở chiến dịch là nơi chiến tranh nhân dân phát triển. Nghệ thuật tác chiến chiến dịch nổi bật là vận dụng sáng tạo, phát triển cách đánh điểm, diệt viện; lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chủ yếu. Việc chọn điểm tiến công mở đầu chiến dịch không nhất thiết là mục tiêu quân sự quan trọng mà có thể là mục tiêu chính trị, kinh tế hiểm yếu.

4e9849c4bcd40d8a54c5-1741321688.jpg

Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải - Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Quốc phòng/BQP

Bước phát triển của nghệ thuật đánh viện trong các chiến dịch giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ là ta không chỉ đánh địch ra tăng viện, giải tỏa bằng đường bộ, đường sông như trong kháng chiến chống Pháp, mà còn đánh địch ra tăng viện giải tỏa bằng đổ bộ đường không. Nghệ thuật đánh viện của ta là bố trí, cơ động triển khai lực lượng bí mật, tạo lợi thế cho ta, đánh được địch ra bằng đường bộ và đổ bộ đường không; có thể chia cắt, vây, tiến công vào bên sườn phía sau… hạn chế chỗ mạnh về hỏa lực, khả năng cơ động của địch. Trong tiến công luôn bám sát, đánh gần, đánh nhanh, chuyển hóa thế trận nhanh. Đánh liên tiếp nhiều trận, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật như vận động tiến công, tập kích, phục kích, tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc là hình thức chiến thuật được vận dụng linh hoạt. Từ trinh sát nắm địch, xác định hướng tiến công, phương pháp mở cửa, cách đánh, cơ động lực lượng, xây dựng trận địa, xuất phát tiến công, tổ chức hỏa lực, đánh chiếm đầu cầu, phát triển đánh chiếm bên trong. Tổ chức các lực lượng đột kích, dự bị để tiêu diệt các khu vực mục tiêu. Vận động tiến công là hình thức chiến thuật được vận dụng phổ biến trong đánh địch khi chúng cơ động ngoài công sự.

3. Giai đoạn từ năm 1965 đến hết năm 1968

Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ vào tham chiến trên quy mô lớn ở miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trên chiến trường miền Nam, ta đã tổ chức chiến dịch tiến công và chiến dịch phản công, qui mô lực lượng từ 1 đến 4 sư đoàn bộ binh, các đơn vị binh chủng và lực lượng vũ trang địa phương. Trước đối tượng tác chiến mới, ta chọn vùng rừng núi làm địa bàn chính để mở chiến dịch. Bước phát triển trong nghệ thuật tổ chức thực hành tác chiến chiến dịch giai đoạn này là ta đã đánh giá đúng tình hình, lựa chọn địa bàn, chọn khu vực (hướng) tiến công chủ yếu đúng. Vì thế, ta đã hạn chế, phá được thế mạnh về hỏa lực, khả năng cơ động, sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng của địch, khoét sâu mặt yếu về tâm lý sợ bị bao vây, chia cắt, đánh gần của quân Mỹ. Mặt khác, ta đã nghi binh, tạo thế, lừa, dụ, đưa địch ra đúng nơi ta đã dự kiến, đã lựa chọn để tập trung lực lượng, phương tiện, phát huy sức mạnh, cách đánh sở trường của ba thứ quân, tiến công tiêu diệt chúng.

Trong chiến dịch tiến công ta đã vận dụng thành công cách đánh điểm diệt viện, tư tưởng chỉ đạo là lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính. Thành công trong vận dụng phát triển cách đánh chiến dịch của ta là đã dự kiến, chuẩn bị nhiều phương án tác chiến để tiêu diệt địch trên đường bộ và địch đổ bộ đường không, tận dụng địa hình, lập thế trận tiến công vững chắc, cơ động, biến hóa. Dù trong tình huống nào, ta cũng giành quyền chủ động tiến công tiêu diệt địch. Trong tiến công, ta tập trung lực lượng, phương tiện trên hướng chủ yếu để tạo ưu thế; đồng thời vận dụng linh hoạt nhiều hình thức chiến thuật (vận động tiến công, đánh địch đổ bộ đường không, vận động phục kích, tập kích…), kết hợp nhiều thủ đoạn chiến đấu (chốt chặn chia cắt, thọc sâu, áp sát, đánh gần…) để hạn chế hỏa lực, khoét sâu chỗ yếu sợ đánh gần của quân Mỹ, đánh thắng trận then chốt chiến dịch.

Trong chiến dịch phản công, ta kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự, ngăn chặn với cơ động tiến công: bước phát triển đó là ta sử dụng lực lượng vũ trang tại chỗ để ngăn chặn các mũi tiến công đường bộ của bộ binh, xe tăng, thiết giáp địch kết hợp với cơ động tiến công tiêu diệt quân đổ bộ đường không trong căn cứ. Đồng thời sử dụng một bộ phận chủ lực cơ động, tiến công vào bên sườn, phía sau quân địch, cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh bại các hướng tiến công chủ yếu, quan trọng của địch.

Chúng ta đã sáng tạo ra hình thức chiến thuật đánh quân đổ bộ đường không. Chiến thuật chốt kết hợp với vận động tiến công hình thành, chiến thuật tập kích phát triển thành chiến thuật vận động tập kích.

4. Giai đoạn từ năm 1969 đến tháng 1/1973

Thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, quân Mỹ vừa từng bước rút quân ra khỏi miền Nam và ra sức củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy quyền. Ta đã tiến hành thắng lợi cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam và đánh bại chiến tranh phá hoại lần thứ 2 ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, giành thắng lợi quyết định. Đây là giai đoạn phát triển cao các loại hình chiến dịch với các qui mô nhỏ và vừa; diễn ra trên các loại địa hình, chủ yếu là rừng núi, thời gian chiến dịch dài, không gian chiến dịch rộng.

Trong các chiến dịch tiến công, ta vận dụng phương thức kết hợp đột phá, thọc sâu với bao vây chia cắt, đánh địch trên toàn bộ chiều sâu phòng ngự chiến dịch của địch. Thành công nổi bật trong nghệ thuật chiến dịch phản công của ta là kết hợp lực lượng tại chỗ mạnh với lực lượng chủ lực cơ động, đánh gãy từng cánh quân địch, làm đảo lộn ý định tiến công của chúng, buộc địch từ chủ động tiến công sang bị động đối phó, chịu thất bại, rút lui.

Trong các chiến dịch tiến công tổng hợp, phương thức hoạt động chủ yếu là kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị trên qui mô chiến dịch. Kết hợp chặt chẽ cả về chiến dịch và chiến thuật, giữa tiến công quân sự của chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương với nổi dậy của quần chúng và công tác binh vận.

37f863aa96ba27e47eab-1741321688.jpg

Trong các chiến dịch phòng ngự, ta đã chủ động chuyển vào phòng ngự (chiến dịch cánh đồng chum). Xây dựng các trận địa có chính diện và chiều sâu hợp lý, có khả năng bám trụ dài ngày. Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự tích cực, vững chắc, ngoan cường với liên tục phản kích và các trận phản đột kích; kết hợp các hình thức vận động tiến công, tập kích, phục kích vào sau lưng địch của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Đánh địch trên nhiều hướng, đồng thời tập trung lực lượng đánh bại hướng tiến công chủ yếu của địch, có lực lượng dự bị mạnh.

Giai đoạn 1969-1972, các hình thức, thủ đoạn chiến thuật của ta có bước phát triển rất quan trọng. Trong tiến công và phản công, ta đã vận dụng các hình thức vận động phục kích, tập kích, vận động tiến công, đánh đổ bộ đường không, truy kích, tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc, tập kích bí mật bằng đặc công, công kiên, vây lấn… Trong phòng ngự có phòng ngự trận địa, phòng ngự kết hợp chốt và vận động cùng các hình thức chiến thuật khác.

Điểm nổi bật trong giai đoạn này là xuất hiện các trận tiến công hiệp đồng binh chủng qui mô sư đoàn trong các chiến dịch tiến công và phản công.

5. Giai đoạn từ năm 1973 đến tháng 4/1975

Tổ chức lực lượng ngăn chặn địch lấn chiếm và bình định của địch phá hoại hiệp định Paris. Nhanh chóng chuyển thế chiến trường từ giữa năm 1973. Nhạy bén phát hiện thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam (7/1974). Hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976 (tháng 10/1974).

Điểm nổi bật về chiến lược quân sự giai đoạn này vận dụng sáng tạo phương pháp tiến công chiến lược, chỉ đạo phối hợp chiến trường chặt chẽ. Từ tiến công trên chiến trường trọng điểm Tây Nguyên, ta nắm bắt được thời cơ, tổ chức tiến công gối đầu chiến dịch Huế - Đà Nẵng và vận dụng phương pháp kế tiếp để chắc thắng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng – chiến dịch Hồ Chí Minh. Khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn, thì các chiến trường khác được lệnh đẩy mạnh tác chiến phối hợp không cho địch rút lực lượng đi ứng cứu cho Tây Nguyên, dồn địch vào thế hoàn toàn bị động, bất ngờ, mất khả năng cơ động, chịu thất bại hoàn toàn và nhanh chóng.

Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam đã phát triển lên một bước mới, cao và hoàn chỉnh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Ta đã tổ chức thành công các chiến dịch đồng thời và kế tiếp khi thời cơ xuất hiện. Đó là nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, đảm bảo đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức mạnh áp đảo trong chiến dịch. Khi địch còn ổn định, có tổ chức thì cần tập trung hơn địch ở trọng điểm đánh có chuẩn bị, chắc thắng (chiến dịch Tây Nguyên). Khi địch hoang mang rút chạy thì cái chính là chớp thời cơ, đánh trong hành tiến (Huế - Đà Nẵng). Khi đánh vào sào huyệt cuối cùng của địch thì tập trung lực lượng ưu thế đến mức cao nhất (chiến dịch Hồ Chí Minh).

Mỗi chiến dịch tiến công lớn trong cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1975 đều có những phương pháp tác chiến khác nhau. Nhưng nhìn chung, đó là sự vận dụng của 2 phương pháp tác chiến chiến dịch:

-       Lần lượt tiêu diệt từng sư đoàn địch, đánh chiếm từng mục tiêu chiến dịch, tiến tới tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, giải phóng toàn bộ không gian chiến dịch (chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng).

-       Đồng loạt tiêu diệt các sư đoàn địch phòng ngự ở vòng ngoài, đồng thời thọc sâu, đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu của chiến dịch ở bên trong; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ tập đoàn phòng ngự chiến dịch của địch, giải phóng không gian chiến dịch trong thời gian ngắn (chiến dịch Hồ Chí Minh).

Nét đặc sắc về nghệ thuật chiến dịch của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là sử dụng sức mạnh hiệp đồng quân binh chủng của các đơn vị chủ lực, gắn với nổi dậy của quần chúng. Kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ. Ta đã vận dụng các hình thức chiến thuật rất linh hoạt như đánh cắt đường, tiến công địch trong các căn cứ thị xã, thành phố lớn. Vận dụng trong cả trường hợp có thời gian chuẩn bị, chuẩn bị gấp và tiến công trong hành tiến, vận động tiến công, đánh địch đổ bộ đường không, truy kích… chiến thuật có bước phát triển lớn, thể hiện ở bày mưu, lập kế; điều khiển địch theo ý định của ta, lừa nhử địch vào kế của ta mà đánh, đánh cả trong công sự và ngoài công sự, trên các loại địa hình (rừng núi, nông thôn, đồng bằng, đô thị và hải đảo); đánh địch co cụm, phản kích hoặc rút chạy. Đánh địch trong điều kiện có chuẩn bị hoặc chuẩn bị gấp, đánh trong hành tiến, thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới (hoặc luồn sâu) vào trung tâm đầu não địch ở thị xã, thành phố… Đây là đỉnh cao về cận dụng chiến thuật của chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Chiến thuật tiến công địch phòng ngự trong các căn cứ, thị xã, thành phố đạt đến trình độ cao cả về vận dụng cách đánh, tổ chức sử dụng lực lượng, trình độ hiệp đồng giữa các lực lượng, các hướng, các binh chủng. Chiến thuật tiến công địch cơ động cũng có bước phát triển, nhất là chiến thuật vận động tiến công và truy kích. Tiến công trong hành tiến đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của bộ đội ta về trình độ tổ chức, chỉ huy nhằm tranh thủ thời gian, tận dụng thời cơ để phát triển chiến dịch, chiến đấu. Các chiến thuật độc lập của các quân, binh chủng cũng được vận dụng rộng rãi và có bước phát triển mới (sử dụng biên đội không quân đánh vào dinh độc lập, sân bay Tân Sơn Nhất).

Trải qua gần 21 năm chiến đấu kiên cường, trong thế trận chiến tranh nhân dân, Quân đội nhân dân việt Nam đã tìm ra những cách đánh địch sáng tạo, những loại hình tác chiến phù hợp và phát triển lên một tầm cao mới. Kế thừa tinh hoa đánh giặc, giữ nước của ông cha “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ thắng lớn”, đó là nghệ thuật quân sự đạt tới đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc đó sẽ được nghiên cứu vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược vì lợi ích quốc gia, dân tộc.

Pleiku, 27.02.2025

Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải