Với nhiều người từng sống qua thời kỳ bao cấp, hình ảnh những bữa cơm độn bo bo, tem phiếu phát gạo, tiếng xe đạp lóc cóc xếp hàng từ sáng sớm đến chiều muộn để mua nhu yếu phẩm đã trở thành những lát cắt không thể quên của ký ức. Đó là giai đoạn mà ngay cả việc có được một bữa ăn no cũng là điều xa xỉ. Những năm đầu thập niên 1980, cái đói không còn là nỗi sợ mơ hồ, mà hiện diện hàng ngày như bóng tối trong mỗi gia đình - nhất là ở các vùng nông thôn, nơi đáng lý phải là "cái nôi" của sản xuất lương thực cả nước. Tình trạng này không chỉ là hệ quả của thiên tai hay chiến tranh, mà còn xuất phát từ những bế tắc nội tại của mô hình kinh tế được áp dụng sau ngày đất nước thống nhất.
Bóng đêm bao cấp và khủng hoảng lương thực thập niên 80
Sau ngày thống nhất đất nước (1975), Việt Nam đứng trước nhiệm vụ kép: hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, với trọng tâm là hợp tác xã hóa nông nghiệp, được đẩy mạnh như một hình thức tổ chức sản xuất chủ đạo. Tư tưởng chủ đạo lúc bấy giờ là tin rằng tập thể hóa sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng suất và đảm bảo công bằng xã hội. Người dân không còn canh tác ruộng đất theo hộ gia đình như trước, mà tham gia vào các hợp tác xã (HTX) với cơ chế "lao động tập thể, phân phối theo công điểm".
Trong mô hình này, người nông dân gần như không còn quyền chủ động đối với ruộng đất hay sản phẩm mình làm ra. Thay vì được toàn quyền canh tác, họ trở thành một mắt xích trong guồng máy sản xuất tập thể, làm công hưởng điểm. Từ việc lựa chọn giống cây trồng, thời vụ, phân bón, đến kỹ thuật canh tác và phân phối sản phẩm, mọi hoạt động đều do cán bộ HTX và các cơ quan cấp trên quyết định. Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Quyết định sản xuất thường dựa trên chỉ tiêu kế hoạch từ cấp trên, nhiều khi không sát với thực tế ruộng đồng, khí hậu, thổ nhưỡng từng địa phương. Ví dụ, việc áp đặt các giống cây trồng không phù hợp hoặc phương pháp canh tác cứng nhắc đã kìm hãm sự sáng tạo và khả năng ứng phó linh hoạt của nông dân. Việc phân phối sản phẩm theo công điểm cũng thường không phản ánh đúng công sức và hiệu quả lao động cá nhân, làm thui chột động lực sản xuất của người nông dân.
Kết quả là năng suất nông nghiệp trì trệ trong nhiều năm, thậm chí còn có xu hướng giảm sút ở nhiều nơi. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 1976-1980, sản lượng lương thực bình quân đầu người chỉ đạt từ 300-320 kg/năm, không đủ đáp ứng nhu cầu lương thực cơ bản của một quốc gia đang phát triển và có tốc độ tăng dân số. Con số này thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của các nước trong khu vực và xa so với ngưỡng đảm bảo an ninh lương thực[1]. Để bù đắp thiếu hụt, năm 1980, cả nước phải nhập khẩu tới gần 1 triệu tấn lương thực từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em, chủ yếu là bo bo (một loại ngô hạt cứng dùng làm thức ăn chăn nuôi hoặc độn cơm) và lúa mì. Điều này cho thấy sự phụ thuộc nặng nề vào viện trợ và khả năng tự chủ lương thực yếu kém của Việt Nam.
Khủng hoảng lương thực không chỉ dừng lại ở số liệu khô khan. Nó hiện hữu trong từng bữa cơm của người dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Các bữa cơm thời ấy hầu như không có thịt cá, ngay cả cơm trắng cũng là thứ xa xỉ, chỉ dành cho người ốm hoặc ngày lễ Tết. Phần lớn các gia đình phải ăn cơm độn, phổ biến nhất là độn bo bo, sắn, khoai hoặc ngô. Chất lượng bữa ăn thấp, thiếu dinh dưỡng trầm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe, sức lao động và sự phát triển thể chất của cả một thế hệ. Tình trạng này càng trở nên tồi tệ hơn khi người nông dân, vốn được xem là "chủ nhân của đất nước mới" sau cách mạng, lại rơi vào tình thế bị động, bất lực. Họ làm ruộng mà không được quyết định cách làm. Họ ăn độn để sản xuất, nhưng sản phẩm làm ra lại phải nộp theo kế hoạch, phần được chia chẳng thấm vào đâu. Thậm chí, nhiều nơi nông dân còn bị thiếu đói ngay trên chính mảnh đất mình canh tác.
Sự bế tắc và chán nản lan rộng trong cộng đồng nông dân. Không ít nơi, nông dân bỏ ruộng, đi làm nghề phụ hoặc vào các thành phố lớn, đặc biệt là vào Nam, tìm kế sinh nhai. Trong nhiều cuộc họp tổ đội, những tiếng thở dài không giấu được: "Làm nhiều cũng thế, làm ít cũng vậy". Câu nói ấy phản ánh đúng tâm trạng buông xuôi, sự mất niềm tin vào hệ thống và sự thiếu động lực làm việc trong bối cảnh chung của nền nông nghiệp bế tắc. Điều này cho thấy mô hình hợp tác xã đã không còn phù hợp, thậm chí trở thành rào cản cho sự phát triển của sản xuất và đời sống nhân dân.
Những "Khoán chui": mầm mống của Đổi mới từ thực tiễn
Thế nhưng, ngay trong bóng tối của sự bế tắc, những tia sáng của sự đổi mới đã âm thầm nhen nhóm. Ở một số địa phương, với tinh thần dũng cảm và sự nhạy bén với thực tiễn, một số cán bộ đã tìm cách phá vỡ lối mòn cũ. Điển hình là Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc và Phú Thọ). Từ những năm 1966, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc đã mạnh dạn thử nghiệm một mô hình mới: giao khoán ruộng đất và sản phẩm cho từng hộ nông dân. Mô hình này, được gọi là "khoán hộ", là một sự đi ngược lại hoàn toàn với chủ trương tập thể hóa và khoán công điểm đang được áp dụng rộng rãi[2].
Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc (áo trắng, đi giữa) đón Bác Hồ về thăm Vĩnh Phúc. Ảnh: Tư liệu.
Mô hình "khoán hộ" của ông Kim Ngọc dựa trên nguyên tắc cơ bản: giao đất cho từng hộ nông dân tự sản xuất, sau khi nộp một phần sản phẩm theo quy định cho HTX hoặc nhà nước, phần còn lại hoàn toàn thuộc về hộ gia đình. Điều này đã khơi dậy mạnh mẽ động lực làm việc của người nông dân. Họ không còn làm việc theo kiểu "cha chung không ai khóc" mà trở thành người chủ thực sự trên mảnh đất của mình. Kết quả vượt trội nhanh chóng được thể hiện: sản lượng lúa của Vĩnh Phú tăng vọt, đời sống nông dân cải thiện rõ rệt. Thấy được hiệu quả to lớn, ông Kim Ngọc đã đề xuất nhân rộng mô hình này ra toàn tỉnh, thậm chí đề xuất lên cấp trung ương. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, chủ trương "giao đất cho hộ" bị xem là trái với đường lối xã hội chủ nghĩa, bị coi là đi ngược lại nguyên tắc tập thể hóa và tiềm ẩn nguy cơ "tự phát tư bản". Ông Kim Ngọc bị kỷ luật, bản thân mô hình "khoán sản phẩm" bị cấm thực hiện và bị phê phán nặng nề. Dù vậy, những hạt giống đầu tiên của tư duy đổi mới đã được gieo.
Tuy nhiên, áp lực của cuộc khủng hoảng lương thực ngày càng trầm trọng vào cuối thập niên 1970 - đầu thập niên 1980 đã buộc nhiều hợp tác xã phải "làm liều". Bất chấp lệnh cấm và nguy cơ bị kỷ luật, một số nơi ở Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An đã bắt đầu giao khoán ruộng đất cho từng hộ dân theo kiểu "khoán chui". "Khoán chui" là cách gọi dân gian để chỉ những hình thức khoán sản phẩm cho hộ gia đình được thực hiện một cách bí mật, không chính thức, thậm chí là lén lút, để tránh sự kiểm tra và phê phán từ cấp trên.
Một trong những ví dụ điển hình nhất là tại xã Đại Thành (Hưng Hà, Thái Bình). Chủ nhiệm HTX Nguyễn Văn Sửu, một người cán bộ tâm huyết và dám nghĩ dám làm, đã âm thầm khoán ruộng đến từng nhà vào năm 1979. Ông chia nhỏ diện tích đất của hợp tác xã cho từng hộ nông dân chịu trách nhiệm sản xuất, sau đó thu lại sản phẩm theo định mức đã thỏa thuận. Phần sản phẩm vượt định mức sẽ thuộc về người nông dân. Kết quả vượt mong đợi: sản lượng tăng hơn gấp đôi, người dân có đủ ăn, có động lực sản xuất và tái đầu tư. Câu chuyện "Khoán 100" của Đại Thành đã trở thành một biểu tượng của sự dũng cảm và sáng tạo trong bối cảnh đầy khó khăn.
Dù mô hình này vẫn bị coi là "phạm luật" ở thời điểm ấy, nhưng nó chứng minh một điều rõ ràng: người nông dân có thể tự lo được nếu được trao quyền và tin tưởng. Các địa phương đi đầu "khoán chui" đã trở thành điểm sáng trong bản đồ sản xuất nông nghiệp của cả nước. Hiệu quả rõ rệt của những mô hình này đã buộc các nhà hoạch định chính sách phải nhìn nhận lại. Nhiều cán bộ Đảng và Nhà nước khi đi thực tế tại các địa phương này cũng không thể làm ngơ trước hiệu quả vượt trội của mô hình khoán hộ. Những báo cáo thực tế, những câu chuyện về sự no ấm của người dân từ những vùng "khoán chui" đã dần dần tạo ra áp lực thay đổi từ cơ sở lên cấp trung ương. Đây là minh chứng hùng hồn cho thấy sự tương tác giữa thực tiễn và chính sách, nơi những sáng kiến từ cơ sở có thể tạo tiền đề cho những thay đổi vĩ mô.
Đại Hội VI và quyết sách lịch sử "Khoán 10"
Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã diễn ra với một tinh thần đổi mới sâu sắc và triệt để. Đại hội này được xem là một bước ngoặt lịch sử, đánh dấu sự chuyển mình từ tư duy bao cấp, kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khác với những đại hội trước, lần đầu tiên, báo cáo chính trị của Đại hội thẳng thắn thừa nhận những yếu kém, sai lầm nghiêm trọng của mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp: sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân khó khăn, phân phối không công bằng, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc thẳng thắn nhìn vào sự thật, không né tránh khuyết điểm, là một điểm nhấn quan trọng, thể hiện ý chí đổi mới mạnh mẽ của Đảng[3].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986). Ảnh: Tư liệu.
Đại hội VI khẳng định rõ mục tiêu đổi mới toàn diện, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, trước tiên bắt đầu từ nông nghiệp - nơi đang khủng hoảng nghiêm trọng nhất và cũng có tiềm năng khôi phục rõ rệt. Sự ưu tiên cho nông nghiệp không chỉ vì đây là lĩnh vực thiết yếu đảm bảo an ninh lương thực, mà còn vì nông nghiệp là nơi tập trung phần lớn dân số, có vai trò ổn định xã hội và tạo nền tảng cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Quyết tâm này đã mở đường cho những chính sách cụ thể nhằm tháo gỡ vướng mắc, giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp.
Từ tinh thần đó, chỉ chưa đầy hai năm sau Đại hội VI, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, thường được gọi là "Khoán 10". Đây là một văn kiện lịch sử, mang tính đột phá, mở đường cho đổi mới triệt để trong nông nghiệp. Nghị quyết "Khoán 10" đã thay đổi hoàn toàn cục diện sản xuất nông nghiệp và tư duy quản lý kinh tế nông thôn.
Nội dung cốt lõi của Nghị quyết "Khoán 10" là xác lập hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ. Điều này có nghĩa là quyền tự quyết về sản xuất được trao trả lại cho người nông dân, thay vì bị hợp tác xã hay các cơ quan nhà nước can thiệp sâu vào từng khâu. Cụ thể, người nông dân được quyền sử dụng đất ổn định lâu dài (dù vẫn thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước giao quyền sử dụng), được tự quyết định phương án sản xuất, từ việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi, thời vụ, đến kỹ thuật canh tác. Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế, nộp sản phẩm theo hợp đồng khoán cho Nhà nước và HTX (để đóng góp vào các quỹ phúc lợi, quỹ xây dựng của hợp tác xã), phần sản phẩm còn lại hoàn toàn thuộc về hộ nông dân. Họ có quyền tự do tiêu thụ, buôn bán hoặc sử dụng theo nhu cầu của mình.
"Khoán 10" đánh dấu sự chuyển dịch triệt để trong tư duy quản lý nông nghiệp: từ chỗ người nông dân là người làm công cho HTX, sang người làm chủ mảnh ruộng của mình. Sự thay đổi này đã giải phóng sức sản xuất bị kìm hãm bấy lâu nay. Người nông dân không còn thụ động chờ đợi chỉ tiêu hay phân công từ trên xuống, mà trở thành những người có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hưởng lợi trực tiếp từ thành quả lao động của mình. Họ được tự lựa chọn giống cây trồng phù hợp nhất với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của mảnh đất mình canh tác, tự quyết định thời vụ để đạt năng suất cao nhất, và áp dụng những cách canh tác hiệu quả nhất dựa trên kinh nghiệm thực tế. Điều quan trọng là, họ được toàn quyền với phần thu nhập sau khi nộp nghĩa vụ, tạo động lực mạnh mẽ để họ đầu tư công sức, trí tuệ và vốn liếng vào sản xuất.
Hồi sinh nông nghiệp cùng những đổi thay sâu sắc
Hệ quả tức thời của chính sách "Khoán 10" là một cuộc hồi sinh ngoạn mục trong sản xuất nông nghiệp. Chỉ trong 3 năm sau khi Nghị quyết "Khoán 10" được ban hành, sản lượng lương thực cả nước đã tăng vọt từ hơn 17 triệu tấn năm 1987 lên hơn 21 triệu tấn năm 1990[4]. Đây là một bước nhảy vọt đáng kinh ngạc, cho thấy tiềm năng to lớn của nông nghiệp Việt Nam khi được giải phóng.
Thực hiện khoán gọn theo đơn giá, vụ mùa năm 1988, HTX Nhân Khang, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Ninh thu hoạch lúa đạt năng suất 42 tạ/ha, đưa năng suất cả năm lên 92,5 tạ/ha. Ảnh: Thế Thuần - TTXVN.
Đặc biệt, từ một quốc gia phải nhập khẩu lương thực liên tục trong nhiều năm để nuôi sống dân số, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo từ năm 1989. Đây là một cột mốc lịch sử, không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn khẳng định khả năng tự chủ lương thực của đất nước. Đến cuối thập kỷ 1990, Việt Nam đã lọt vào top 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, bên cạnh Thái Lan và Ấn Độ. Thành tựu này không chỉ giúp Việt Nam đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn tạo ra nguồn thu ngoại tệ quan trọng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tạo tiền đề cho các ngành kinh tế khác phát triển.
Không chỉ là con số, điều quan trọng hơn mà "Khoán 10" mang lại là niềm tin trở lại với người nông dân. Từ chỗ sản xuất theo mệnh lệnh, họ bắt đầu làm ăn như một "người chủ": tính toán chi phí, đầu ra, mở rộng diện tích, liên kết đầu tư. Tư duy "làm nông để sống" dần chuyển sang "làm nông để làm giàu". Sự chuyển đổi về tư duy này là một yếu tố then chốt, tạo ra động lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp. Khi người nông dân được làm chủ, họ sẽ tự tìm tòi, học hỏi, áp dụng khoa học kỹ thuật mới, tìm kiếm thị trường tiêu thụ và đa dạng hóa sản phẩm.
Từ đó, nhiều mô hình sản xuất mới ra đời, không chỉ dừng lại ở cây lúa mà còn mở rộng sang các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản. Kéo theo sự phát triển của các mô hình sản xuất mới là sự hình thành và phát triển của thị trường vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và cơ khí nông nghiệp. Các kênh phân phối sản phẩm nông nghiệp cũng trở nên đa dạng hơn, từ chợ truyền thống đến các hợp đồng tiêu thụ với doanh nghiệp. Điều này tạo nên một chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn chỉnh hơn, năng động hơn.
Ảnh hưởng của Đổi mới và những biến đổi xã hội
Có thể nói, Đổi mới 1986 bắt đầu không phải từ một văn bản, mà từ sự khẩn thiết của đời sống và tinh thần dũng cảm, dám nghĩ dám làm của những người làm thật: từ cán bộ địa phương, lãnh đạo hợp tác xã cho đến người dân. Những "khoán chui" của Vĩnh Phú, Thái Bình, Nghệ An... chính là những thực nghiệm sống động, những bài học xương máu, đặt nền móng cho chính sách quốc gia sau này. Điều này nhấn mạnh vai trò quan trọng của thực tiễn và những sáng kiến từ cơ sở trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách vĩ mô.
Đổi mới trong nông nghiệp không chỉ dừng lại ở lĩnh vực này mà còn kéo theo hàng loạt cải cách khác trong nền kinh tế quốc dân. Thành công của "Khoán 10" đã tạo tiền đề và niềm tin để Đảng và Nhà nước tiếp tục mở rộng các chính sách đổi mới sang các ngành, lĩnh vực khác. Đầu tư nước ngoài được khuyến khích mạnh mẽ với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987. Đây là một bước đi táo bạo, mở cửa nền kinh tế Việt Nam với thế giới, thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài. Mô hình doanh nghiệp nhà nước được cải cách để phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước cổ phần hóa, sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả hoạt động. Các khu công nghiệp, khu chế xuất bắt đầu hình thành từ đầu thập niên 1990, mở đường cho sự tăng trưởng công nghiệp sau này. Sự phát triển của các khu công nghiệp đã thu hút một lượng lớn lao động từ nông thôn, tạo ra việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trên thực tế, Đổi mới 1986 không chỉ giúp khôi phục sản xuất mà còn thay đổi nền tảng xã hội ở nông thôn một cách sâu sắc. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, nông dân có quyền thực sự với đất đai, không chỉ về mặt pháp lý mà cả trong thực tế sử dụng và sinh kế. Điều này đã trao quyền và vị thế cho hàng triệu hộ nông dân, giúp họ tự chủ hơn về kinh tế và có tiếng nói hơn trong cộng đồng.
Cơ cấu xã hội làng quê thay đổi rõ rệt. Từ chỗ chỉ có nông dân thuần túy lao động tập thể, xuất hiện lớp "nông dân doanh nhân": những người không chỉ làm nông mà còn biết tính toán, kinh doanh, liên kết sản xuất và tiêu thụ. Các hộ chuyên canh rau màu, nuôi trồng thủy sản, làm kinh tế hộ quy mô lớn ngày càng phổ biến. Sự phát triển của kinh tế hộ đã làm giảm dần sự phụ thuộc vào hợp tác xã, tạo ra một nền kinh tế nông thôn năng động hơn, đa dạng hơn. Từ tư tưởng "nghèo là đạo đức" (một quan niệm tồn tại trong thời bao cấp, coi trọng sự bình đẳng trong nghèo khó hơn là sự giàu có và phát triển), nông thôn bước sang giai đoạn coi trọng hiệu quả, sáng tạo và chủ động. Người dân được khuyến khích làm giàu chính đáng, và sự giàu có không còn bị kỳ thị mà trở thành mục tiêu phấn đấu.
Thách thức mới và bài học vĩnh cửu
Tuy vậy, thành công của Đổi mới cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Sự phân hóa giàu nghèo bắt đầu xuất hiện trong nội bộ nông thôn, khi những hộ năng động, có điều kiện phát triển kinh tế nhanh hơn, trong khi một số hộ khác vẫn còn khó khăn. Điều này đòi hỏi các chính sách xã hội phải được điều chỉnh để đảm bảo công bằng và hỗ trợ những đối tượng yếu thế.
Hạ tầng, dịch vụ, giáo dục, y tế ở nông thôn chưa kịp phát triển để đáp ứng đời sống người dân đang thay đổi nhanh chóng. Mặc dù kinh tế phát triển, nhưng chất lượng sống ở nhiều vùng nông thôn vẫn còn thấp, thiếu thốn các dịch vụ cơ bản. Nhiều nơi, đất đai được khai thác tối đa để tăng năng suất nhưng lại thiếu các chính sách bảo vệ môi trường, dẫn đến thoái hóa tài nguyên đất, ô nhiễm nguồn nước và suy giảm đa dạng sinh học. Đây là những vấn đề Việt Nam tiếp tục phải đối mặt và giải quyết trong giai đoạn phát triển mới, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường.
Cho đến ngày nay, khi nhìn lại hành trình gần 40 năm phát triển của Việt Nam, người ta thường nhắc đến "Khoán 10" như một trong những điểm bùng phát sáng tạo nhất của Đổi mới. Không chỉ vì hiệu quả kinh tế phi thường mà nó mang lại, mà vì đó là bài học sâu sắc về sự lắng nghe thực tiễn, về việc trao quyền cho người dân, và về vai trò không thể phủ nhận của nông thôn trong chuyển hóa quốc gia. "Khoán 10" không chỉ là một chính sách, mà còn là biểu tượng của tinh thần đổi mới, dám vượt qua những tư duy cũ kỹ, cứng nhắc để tìm ra con đường phù hợp nhất cho sự phát triển của đất nước.
Cuộc Đổi mới năm 1986 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước Việt Nam, một kỷ nguyên của tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế và nâng cao đời sống nhân dân. Nhưng điều quan trọng hơn cả là: nó bắt đầu từ ruộng đồng, nơi cái đói từng ám ảnh, nơi ý chí con người vượt lên cả lý thuyết cứng nhắc và những khó khăn chồng chất. Sẽ không có "Khoán 10" nếu không có hàng vạn người dân "làm liều" để cứu lấy cái ăn, để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình. Sẽ không có Đổi mới nếu không có những nhà lãnh đạo dũng cảm, nhìn thẳng vào sự thật, chấp nhận rủi ro để đưa ra những quyết sách mang tính đột phá.
Nông nghiệp xanh được xem là mô hình phát triển nông nghiệp chủ đạo trong tương lai. Ảnh: Internet.
Hôm nay, nông thôn Việt Nam đang bước vào thời kỳ chuyển mình mới, với chương trình nông thôn mới toàn diện, hướng tới chuyển đổi số trong nông nghiệp, phát triển nông nghiệp xanh và bền vững. Những nỗ lực này nhằm mục tiêu hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn. Nhưng dù hành trình tương lai đi đến đâu, thì bài học từ năm 1986 vẫn còn nguyên giá trị: muốn cải cách thành công, phải bắt đầu từ nơi khó khăn nhất, từ những vấn đề cốt lõi nhất của đời sống; và mọi chính sách, nếu không xuất phát từ người dân, không đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu, thì đều khó bền vững và khó đạt được hiệu quả thực sự. Tinh thần "lấy dân làm gốc" và dám đối mặt với thực tiễn chính là kim chỉ nam cho sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Tài liệu tham khảo
- Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB Chính trị Quốc gia, 1986.
- Báo Chính phủ. “Nông nghiệp Việt Nam sau 39 năm: Nhìn lại”. https://baochinhphu.vn/nong-nghiep-viet-nam-sau-39-nam-nhin-lai-102162928.htm
- VOV. “Ông Kim Ngọc - Cha đẻ của Khoán 10, người cán bộ tư duy táo bạo”. https://vov.vn/chinh-tri/ong-kim-ngoc-cha-de-cua-khoan-10-nguoi-can-bo-tu-duy-tao-bao-916679.vov
- Thông tấn xã Việt Nam. “Từ Khoán 10 đến cường quốc xuất khẩu gạo”. 90 năm ĐCS Việt Nam: Từ "Khoán 10" đến cường quốc xuất khẩu gạo – bài học lớn về tin dân, trọng dân và quyết tâm đổi mới của Đảng - Ảnh chuyên đề - Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN)
- Lao Động. “Thương hiệu quốc gia và hành trình gạo Việt”. https://laodong.vn/kinh-doanh/thuong-hieu-quoc-gia-va-hanh-trinh-gao-viet-998523.ldo
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. “Giáo trình lý luận chính trị cơ bản”. Tài liệu điện tử, AnyFlip. https://anyflip.com/mhnd/simc/basic/401-450