
Những năm tháng tham gia đàm phán ở Hội nghị Paris là một thử thách khắc nghiệt: “Hội nghị Paris là một trận chiến quyết liệt, là những keo vật không đứt giữa các kỳ phùng địch thủ”. Nhưng hình ảnh “Madam Bình” theo cách gọi của giới truyền thông vẫn luôn gây ấn tượng mạnh với báo chí phương Tây,
Họ ấn tượng không chỉ bởi trước mắt họ là hình ảnh một người phụ nữ nhỏ nhắn đến từ vùng đất đầy khói lửa chiến tranh nhưng lại có phong cách giao tiếp lịch lãm, sang trọng, nét mặt và nụ cười luôn cởi mở, thân thiện, mà họ còn rất ấn tượng bởi những lời phát biểu đầy thuyết phục, thông minh, lúc rắn rỏi, khi ví von dí dỏm... khiến cho thế giới phải nể trọng, nhân dân nức lòng.
Khoảng thời gian giữa hai kỳ họp là một khối lượng công việc lớn và đầy căng thẳng. Bà tham gia các cuộc họp báo, trả lời phỏng vấn, tham dự các hội nghị quốc tế với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, đi khắp các châu lục tuyên truyền, vận động, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cho sự nghiệp đấu tranh vì chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, chuẩn bị thông tin để đưa ra những đòn tấn công ngoại giao sắc bén cho cuộc đàm phán phía trước.
Có lần, một nhà báo phương Tây hỏi: “Bà có ở Đảng Cộng sản không?”. Bà nhanh nhẹn trả lời: “Tôi thuộc Đảng yêu nước”. Câu trả lời thông minh ấy đã khiến nhà báo kia phải cứng họng. Trong quá trình đàm phán, bà luôn tâm niệm: “Họ có quyền hỏi, mình có quyền trả lời. Nhưng trả lời thế nào để họ tâm phục khẩu phục, hiểu rõ hơn cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc mình, đó mới là điều quan trọng”.
Hoặc có lần, có nhà báo hỏi: “Có quân đội miền Bắc ở miền Nam không?”. Bà Bình trả lời: “Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như ở Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược”.
Nhà báo hỏi: “Vùng giải phóng ở đâu?”. Bà Bình dứt khoát: “Nơi nào Mỹ ném bom, bắn phá thì đó chính là vùng giải phóng của chúng tôi. Nếu không tại sao Mỹ lại phải ném bom?”.
Giữa năm 1971, truyền hình Pháp tổ chức cuộc họp báo ở hai đầu Paris và Washington, có 20 nhà báo tham gia, 10 người phần lớn là Mỹ bảo vệ lập trường của Mỹ, 10 người, phần lớn là Pháp trung lập. Bà Bình một mình giữa các nhà báo sừng sỏ, dưới ánh đèn sáng chói đã bình tĩnh đối đáp đàng hoàng, mạnh mẽ nhưng hòa nhã, nêu rõ thiện chí muốn tìm giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh. Hình ảnh của bà bấy giờ khiến người ta liên tưởng đến một hình ảnh ví von là “khiêu vũ giữa bầy cáo”.
Sau nhiều nỗ lực, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết. Đây là vinh dự lớn lao trong cuộc đời hoạt động của bà, mỗi khi nhớ về sự kiện trọng đại này, bà vẫn tự hào: “Khi đặt bút ký vào bản hiệp định chiến thắng, nghĩ đến những đồng bào, đồng chí ngã xuống - những người không còn có thể biết được sự kiện trọng đại này, mắt tôi bỗng nhòe ướt.
Trong cuộc đời tôi, đây là vinh dự rất lớn vì được thay mặt nhân dân, các chiến sĩ cách mạng để đấu tranh trực diện với kẻ thù xâm lược ngay tại Paris, được đặt bút ký vào bản hiệp định chiến thắng sau 18 năm cả nước tiến hành cuộc chiến đấu chính nghĩa đầy hy sinh gian khổ… Đó có lẽ là kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời ngoại giao của tôi”.
Sau ngày đất nước thống nhất, bà Nguyễn Thị Bình được bổ nhiệm là Bộ trưởng Bộ giáo dục Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, tháng 2/1987, bà được phân công làm Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp Hòa bình Đoàn kết hữu nghị với Việt Nam; đại biểu Quốc hội các khoá VI, VII, VIII, IX, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bà nghỉ hưu năm 2002.
Với những cương vị đó, bà Nguyễn Thị Bình có nhiều đóng góp trên lĩnh vực tuyên truyền, giới thiệu về đường lối đối ngoại của Việt Nam, củng cố tăng cường hữu nghị giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế cũng như với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt, bà đã góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước lớn, tạo được uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Làm được điều đó là bởi sức hấp dẫn, tính thuyết phục lớn và sâu của bà, không chỉ ở trong nước mà cả đối với đông đảo những người ngoài nước, kể cả những nhân vật lớn và “khó”. Chẳng hạn như sau năm 1979, khi ta buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh Tây Nam khó nhọc chống lại quân Pol Pot xâm lấn biên giới và cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng, rất nhiều bạn bè cũ đã không thể thấu hiểu và chúng ta đã phải lâm vào thế cô lập khá lâu, họ đã tìm đến bà Bình, và sau khi nghe bà ôn tồn giải thích, họ bảo: “Đúng rồi, chúng tôi đã nghe nhiều người, nhưng đến Bình nói thì tôi tin!”
Suốt những năm tháng ác liệt, khó khăn nhất, ở bất cứ nơi nào bà đến trên hầu khắp thế giới cũng vậy, người ta bảo” “Bình nói thì tôi tin”…
Những năm tháng ấy, bà có mặt ở hầu khắp hành tinh, và thật lạ, thật đẹp, hình ảnh của một Việt Nam đang chiến đấu khốc liệt lại được đại diện không phải bằng một chiến binh đằng đằng sát khí mà là một phụ nữ nhỏ nhắn, khiêm nhường mà uyên bác, gần gũi mà sang trọng, sự kiên định không gì lay chuyển nổi lại được thể hiện chính bằng một vẻ thong dong đầy tự tin…
Bà gọi công việc đó là “ngoại giao nhân dân”, nghĩa là con người đến với con người, trái tim đến với trái tim. Bà đem bạn bè về cho dân tộc. Và đấy là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định thắng lợi kỳ lạ của Việt Nam trong thế kỷ qua.
Giờ đây, ở tuổi 97, sự đóng góp của vị “sứ giả hòa bình” Nguyễn Thị Bình – Madam Bình vẫn là biểu tượng sáng ngời về phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
ST