1. Xác định kẻ thù, hoạch định đường lối chính xác
Sau khi hiệp định Geneva về lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, trước ý đồ thay thế Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ. Tháng 7/1954 tại hội nghị Trung ương lần thứ 6, Đảng ta đã sớm xác định: Kẻ thù chính của nhân dân thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông dương là đế quốc Mỹ. Tháng 9/1960, Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã xác định và chỉ rõ: Kẻ thù mới của dân tộc ta là đế quốc Mỹ và tay sai. Với tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo. Đảng đã hoạch định đường lối cách mạng miền Nam. Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (Tháng 1/1959) đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam với nội dung cơ bản là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân. Sau khi có nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng lực lượng ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp từng bước hình thành. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, các căn cứ địa cách mạng tại chỗ được khôi phục và mở rộng, đường bộ 559, đường biển 759 được hình thành và phát huy tác dụng.
Nghị quyết 15 đã vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng miền Nam, tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ngày càng rộng lớn. Tiếp đó Đại hội III của Đảng xác định đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng ở hai miền và vai trò, vị trí, mối quan hệ của cách mạng mỗi miền đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Đây là điểm độc đáo, sáng tạo của một chính Đảng cộng sản, lãnh đạo cách mạng một nước bị chia cắt với hai chiến lược khác nhau và đã thành công vào xuân 1975 với phương châm: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Quan điểm của Đảng luôn kiên trì về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược để giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối và hoạt động đối ngoại trong bối cảnh tình hình thế giới phức tạp vì đấu tranh ngoại giao với Mỹ. Từ năm 1964 Đảng chủ trương mở rộng mặt trận đấu tranh ngoại giao và cục diện “vừa đánh vừa đàm” với nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, không giao động trên bàn hội nghị. Hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973). Quân Mỹ và đồng minh của Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam đã minh chứng bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng và nhân dân Việt Nam.
2. Giải quyết tốt các mối quan hệ, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù
Từ tháng 7/1954 Đảng ta đã xác định phải xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. Tại Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (Tháng 3/1955) nhiệm vụ của hai miền được xác định rõ hơn: "Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân". Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (Tháng 12/1957) Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng; Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong đó nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới; Lực lượng cách mạng miền Nam cần tiếp tục duy trì và phát triển. Đảng ta coi đó là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đại hội lần thứ III của Đảng (Tháng 9/1960) Vị trí của cách mạng mỗi miền được Đảng ta tiếp tục khẳng định: Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Đồng thời cũng là "Theo yêu cầu của cả nước. góp phần bảo vệ miền Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải - Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Quốc phòng/BQP
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Quốc tế. Việc xác định đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng, tư duy chiến lược, tài thao lược xuất sắc của Đảng. Đảng đã kịp thời chuyển cuộc đấu tranh cách mạng ở miền nam từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng; kết hợp nhuần nhuyễn giữa khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng; đưa cuộc chiến tranh của nhân dân miền Nam phát triển phù hợp với tình hình mới; đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, bằng cả ba mũi giáp công; trên cả ba vùng chiến lược. Nhờ đó đã kìm chế và làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt". của Mỹ nguỵ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" đưa quân Mỹ và chư hầu trực tiếp xâm lược, tham chiến ở miền Nam, đồng thời dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc hòng ngăn cản sự chi viện từ Bắc vào Nam.
Thực tế đã chứng minh, sự gắn bó của cách mạng hai miền đã tạo nên sức mạnh vô địch trên toàn đất nước. Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ. Căn cứ địa cách mạng của cả nước, còn nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng trong cuộc chiến đấu kiên cường, dẻo dai, vượt qua mọi thử thách ác liệt, sáng tạo ra nhiều cách đánh đầy uy lực như "Đồng khởi", vành đai diệt Mỹ, đánh địch bằng hai chân, ba mũi, ba vùng... xứng đáng là thành đồng Tổ quốc.
Để đánh bại đế quốc hùng mạnh, vượt trội cả về kinh tế và quân sự, cuộc đọ sức quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng Đảng ta đã kết hợp được sức mạnh của cả dân tộc và sức mạnh thời đại. Một mặt phải phát huy tiềm lực của chính mình; mặt khác phải có chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước trên thế giới, trong đó có sự liên minh ba nước Đông dương, đặc biệt là sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa. Kiên trì thuyết phục nhằm hạn chế những nhân tố tiêu cực trong quan hệ quốc tế
3. Dự báo chính xác tình hình, nắm vững thời cơ đưa cách mạng miền Nam tiến lên
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá, dự báo sớm và đúng xu thế diễn biến của chiến tranh nên đã kịp thời đề ra các chủ trương đối phó đúng đắn, chủ động và sáng tạo.
Khi chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ đi đến thất bại, Đảng đã dự báo địch có thể leo thang lên nấc cao hơn và có thể đánh ra miền Bắc lúc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, Đảng đã đánh giá đúng, so sách lực lượng địch- ta. Kiên định quyết tâm đánh Mỹ; đã chủ động kết hợp tốt phản công với tiến công tại các hội nghị của Bộ Chính trị, của Trung ương Đảng năm 1967, đầu năm 1968 Đảng ta vạch rõ; cần phải tạo ra một chuyển biến lớn về tình hình có lợi cho ta giữa lúc Mỹ đang ở thế ngập ngừng về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ đang hoang mang dao động, phải tạo được một bước ngoặt lớn của chiến tranh, dùng cách đánh mới, giáp một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ.
Với những phán đoán đúng và dự báo sớm, ta đã chuẩn bị tốt và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Thủ đô Hà Nội (Tháng 12/1972), buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris rút hết quân ra khỏi miền Nam.
Đảng ta đã lựa chọn hướng tiến công không phải là rừng núi và nông thôn mà là đô thị, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế nơi địch sơ hở... Đồng thời dự kiến các khả năng và quyết định Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, điều này thể hiện rõ tư duy quyết đoán, sáng tạo và cách đánh mới rất bất ngờ, đầy hiệu lực của Đảng ta. Nhờ đó đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngày 1/11/1968 đế quốc Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và đánh phá (Lần thứ Nhất) trên toàn bộ miền Bắc; đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của chiến lược "Chiến tranh cục bộ".
Đảng ta cũng đã dự báo trước khả năng Mỹ có thể đánh bom, bắn phá trở lại miền Bắc, mở rộng chiến tranh sang Lào, Campuchia để gây sức ép với ta, đồng thời thấy rõ những điểm yếu của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Đảng đã tìm ra phương hướng chiến lược "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào".
Với những nhận định và dự báo đúng, kịp thời, ta đã chủ động chuẩn bị tốt và đánh bại chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ trên miền Bắc. Ngày (29/3/1973) Quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam, cục diện chiến trường chuyển biến có lợi cho ta. Năm 1974, quân và dân ta mở các cuộc tiến công trên khắp các chiến trường miền Nam, làm cho đối phương bị động đối phó. Sau chiến thắng Thượng Đức, Đồng Xoài, nhất là thắng lợi của chiến dịch Đường 14 - Phước Long đã tạo cơ sở để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định những vấn đề hệ trọng, liên quan tới toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Họp đợt 1 từ ngày 19/6 đến 6/7; đợt 2 từ ngày 1 đến 4/10/1973) đã phân tích sâu sắc diễn biến tình hình trên chiến trường, trong nước, trong khu vực và trên thế giới có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam; chỉ rõ âm mưu hành động chống phá hiệp định Paris ngày càng trắng trợn của Mỹ nguỵ. Từ giữa năm 1974, nguồn viện trợ kinh tế, quân sự từ Mỹ ngày càng bị cắt giảm, làm cho quân đội nguỵ Sài Gòn lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Nắm thời cơ Đảng ta đã chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường. Các binh đoàn chiến lược được thành lập hệ thống đường ống dẫn dầu được mở rộng, một khối lượng lớn vật chất, phương tiện chiến tranh ra tiền tuyến.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 7/1974, Bộ Tổng tham mưu khởi thảo kế hoạch giải phóng miền Nam. Tháng 10 và tháng 12/1974 Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương cùng Bộ Tư lệnh miền Nam họp bàn về quyết tâm và kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975- 1976 và dự kiến; nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Trước tình thế cách mạng và thời cơ đã đến. Đảng ta quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên với trận đột phá chiến lược Buôn Ma Thuột (10/3/1975). Với chiến thắng này, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. Sau khi Huế được giải phóng (26/3) Đà Nẵng giải phóng (29/3), đến ngày 3/4 ta giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung. Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh từ ngày 26/4. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ của mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã tung bay trên nóc dinh Độc lập. Đất nước thống nhất non sông thu về một mối Bắc Nam sum họp một nhà.
4. Chú trọng công tác xây dựng Đảng, đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975) là vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Sau năm 1954 đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, đòi hỏi công tác xây dựng Đảng phải ngang tầm với yêu cầu mới, bí mật, gọn, vững chắc, trong sạch, chống bọn phản động chui vào nội bộ Đảng. Trung ương Đảng đã quyết định thành lập một bộ phận của Đảng lao động Việt Nam để trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam. Trung ương cục miền Nam ra đời ( 10/1961) và trực tiếp xây dựng tổ chức Đảng đến tận cơ sở, với phương trâm “ Dân bám đất, Đảng bám dân, du kích bám giặc”, bám đất, bám làng lãnh đạo cuộc kháng chiến. Tháng 12/1974, Ban Chấp hành Trung ương họp hội nghị lần thứ 23 bàn về “Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng”. Đảng là hội nghị chuyên đề đầu tiên về xây dựng Đảng. Đồng thời với việc xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên “Đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ”. Đảng luôn coi trọng công tác chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, trong điều kiện lịch sử mới phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong di chúc “1969”, Người căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi Đảng viên, mỗi Đoàn viên, mỗi Chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Tháng 9/1975, Trung ương cục miền Nam tự giải tán.
Như vậy, sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng trong Thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) là quá trình bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các hội nghị và đại hội của Đảng. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh Cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc giữ nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các nước xã hội chủ nghĩa và của thế hệ giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trong thế kỷ XX.
Pleiku, 28.2.2025